Phòng bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi

Chăm sóc trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ

Ở lứa tuổi này, trẻ từ khi được bú mẹ đến lúc cai sữa mẹ và ăn bữa ăn của người lớn ở các nước thường có tỉ lệ suy dinh dưỡng khá cao kể cả Việt Nam nếu trẻ không được chăm sóc tốt. Mô hình bệnh tật ở tuổi nhà trẻ chủ yếu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường ruột như: tiêu chảy, viêm đường hô hấp và một số bệnh lây truyền khác thường gặp.

Lứa tuổi này chủ yếu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường ruột, viêm đường hô hấp...

Để phòng ngừa suy dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, các nhà khoa học vận động việc nuôi con bằng sữa mẹ, khuyến cáo nên cho trẻ bú kéo dài ít nhất trong thời gian từ 18 - 24 tháng tuổi; hướng dẫn cho bà mẹ cách dùng thức ăn bổ sung đúng đối với trẻ, đồng thời vận động nhà nước và các tổ chức xã hội cung cấp thêm thực phẩm bổ sung khẩu phần thức ăn cho trẻ. Đồng thời ngành Y tế cần hướng dẫn mạng lưới nhi khoa chăm sóc sức khỏe trẻ em theo dõi cân nặng của trẻ để sớm phát hiện các trường hợp suy dinh dưỡng trên biểu đồ cân nặng. Với phương pháp này, trẻ từ lúc mới sinh ra đến khi 3 tuổi cần lập bảng theo dõi phát triển cân nặng theo quy định: trong năm đầu tiên phải cân trẻ hàng tháng, từ năm thứ hai cân mỗi quý một lần, từ năm thứ ba cân mỗi sáu tháng một lần; khi trẻ lên 4 - 5 tuổi mỗi năm chỉ cần cân một lần. Các nhà khoa học cho rằng 3 năm đầu là thời gian trẻ tiếp tục phát triển lớn nhanh, hoàn thiện các cơ quan bộ máy trong cơ thể, tăng trưởng khoảng 50% chiều cao vĩnh viễn, phát triển hoàn chỉnh tế bào thần kinh trung ương. Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng, tiêu chảy và viêm phổi nhiều lần hoặc mắc các bệnh lây truyền khác thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng. Lưu ý ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ nhỏ rất dễ có nhiều nguy cơ dẫn đến tử vong do suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn, nhất là bị viêm phổi, tiêu chảy, mắc bệnh sởi... Trong lứa tuổi này, ngoài việc hướng dẫn cho người mẹ nuôi con đúng phương pháp, cần phải theo dõi cân nặng để đề phòng suy dinh dưỡng; nhân viên y tế cơ sở nên hướng dẫn cho người mẹ biết cách xử lý đối với trường hợp trẻ bị tiêu chảy cấp, điều trị bù dịch bằng đường uống tại nhà; biết theo dõi nhiệt độ, nhịp thở của con bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Bữa ăn của trẻ từ 1 - 3 tuổi cần thực hiện 4 bữa mỗi ngày, ăn theo kiểu cháo thập cẩm và cơm nát, thức ăn cần nấu nhừ dạng canh, cho ăn thêm hoa quả hàng ngày. Chú ý không nên cai sữa mẹ sớm, nhất là khi trẻ bị ốm, mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

Các bệnh giun sán, ngoài da, tai mũi họng, răng miệng thường chiếm tỉ lệ khoảng 90%

Bệnh còi xương ở nhóm tuổi nhà trẻ cũng thường gặp, theo các nhà khoa học bệnh này chiếm tỉ lệ cao khoảng từ 25 - 30% số trẻ em tại nước ta. Với một quốc gia quanh năm có ánh sáng mặt trời nhưng một số người mẹ chưa có tập quán cho trẻ ra ngoài trời sưởi nắng để có thể tiếp nhận nguồn vitamin D tự nhiên. Nếu bị mắc bệnh còi xương, trẻ sẽ chậm lớn, chậm biết đi, chậm mọc răng; khi còi xương nặng trẻ sẽ bị biến dạng đôi chân thành vòng kiềng, có hình chữ X, lồng ngực bị dô ra như ức của con gà. Để phòng ngừa bệnh còi xương, mỗi ngày cần cho trẻ ra chơi ngoài trời khoảng 30 phút, không mặc quần áo che kín người. Ánh sáng mặt trời phải trực tiếp tác dụng trên da của trẻ mới có thể chuyển hóa được tiền vitamin D thành vitamin D để sử dụng. Ngoài ra mỗi ngày có thể cho trẻ uống 1 viên vitamin D liều dưới 500 đơn vị, với liều này có thể dùng lâu dài hàng ngày nhưng không được cho liều cao hơn.

Trẻ từ lúc mới sinh ra đến khi 3 tuổi cần lập bảng theo dõi phát triển cân nặng

Bệnh khô mắt ở trẻ trước 3 tuổi cũng được ghi nhận do thiếu vitamin A, do tập quán kiêng khem của người mẹ, do bữa ăn của con thiếu chất dinh dưỡng; đồng thời có thể do trẻ không được bú sữa mẹ, do trẻ bị tiêu chảy kéo dài. Nếu trẻ có biểu hiện sợ ánh sáng, hay nhắm mắt, quáng gà; cần phải cho trẻ đến bác sĩ chuyên khoa khám và điều trị ngay. Lưu ý nếu thiếu vitamin A cấp tính, trẻ có thể bị mù rất nhanh trong vòng vài ba ngày hoặc mù vĩnh viễn không cứu chữa được. Vì vậy phải thực hiện việc phòng bệnh chủ động với biện pháp cho trẻ bú sữa mẹ, ăn sam có trứng, rau xanh màu xanh thẫm, bữa ăn có đủ dầu mỡ... thì trẻ sẽ không bao giờ bị thiếu vitamin A. Khi trẻ được 2 tháng tuổi nên cho uống nửa viên nang vitamin A tương ứng với 100.000 đơn vị quốc tế, sau đó tiếp tục cho uống mỗi 6 tháng một lần; nếu trẻ trên 1 tuổi uống một lần cả viên nang tương ứng với 200.000 đơn vị quốc tế.

Mỗi ngày cần cho trẻ ra chơi ngoài trời khoảng 30 phút

Theo dõi và kích thích sự phát triển bình thường của trẻ

Trong tháng đầu tiên của cuộc đời, trẻ ở trạng thái ức chế và thường ngủ nhiều, chỉ khóc khi bị đói hay rét hoặc khó chịu trong người. Vì vậy, khi trẻ khóc, người mẹ nên cho con bú; lúc cho con bú cần xem tả lót, nếu bị ướt do nước tiểu thì phải thay ngay tả khô. Người mẹ cần nằm với con để thuận tiện trong việc chăm sóc trẻ, ủ ấm cho trẻ trong mùa đông lạnh và tránh để trẻ bị rét. Về mùa hè, trẻ có thể bị nóng nên cho trẻ tắm mỗi ngày một lần. Lúc trẻ được đầy tháng tuổi, cần bế trẻ ra ngoài trời ở chỗ thoáng mát, có ánh nắng mặt trời để phòng bệnh còi xương. Nếu 1 tháng tuổi mà trẻ biết nhìn ánh sáng đèn, hóng chuyện, ngẩng đầu thì đó là dấu hiệu bình thường. Ngược lại nếu trẻ ngủ suốt ngày, đói không biết khóc, đi tiểu ướt tả không biết kêu, bị vàng da trên 1 tuần, hay bị táo bón, chậm lớn, kém tinh nhanh... cần cho trẻ đi khám bác sĩ để sớm tìm ra bệnh lý và điều trị kịp thời. Theo các nhà khoa học, những trẻ phát triển bình thường có một số đặc điểm như: 3 tháng bắt đầu lẫy, 4 tháng có thể bò, 6 tháng bắt đầu ngồi, 8 - 10 tháng có thể chập chững, 11 - 12 tháng đã biết đi. Những phản xạ biết lạ, biết quen, biết nhận ra người mẹ, nói chuyện bi bô... có khi bắt đầu phát triển rất sớm nhưng cũng có khi phát triển chậm tùy thuộc ở điều kiện giáo dục, tiếp xúc thường xuyên với trẻ.

Chú ý răng sữa thường mọc vào lúc trẻ được 6 - 7 tháng tuổi. Việc mọc răng và thay răng vĩnh viễn thường xảy ra khi trẻ được 6 - 7 tuổi. Nếu răng mọc chậm hơn là phát triển muộn hoặc trẻ có thể bị bệnh còi xương hay mắc các bệnh khác. Lúc lớn lên được từ 3 - 5 tuổi, trẻ hay tìm hiểu sự vật ở chung quanh, hay bắt chước người lớn, thích hoạt động độc lập. Người lớn nên trả lời rõ ràng những câu hỏi của trẻ, không nên nói chớt hoặc nói ngọng vì trẻ dễ bắt chước theo. Hướng dẫn và khuyến khích trẻ tự rửa mặt, lau mặt, lau tay, cởi thắt giải rút quần, đi tất, đi dép; không nên làm thay cho trẻ khi trẻ thích làm mà chỉ nên để ý theo dõi và hướng dẫn cho trẻ.

Người mẹ cần có sự hiểu biết về chăm sóc trẻ và biện pháp phòng tránh

Phòng những bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi

Trẻ dưới 5 tuổi thường mắc một số bệnh lý hay gặp như suy dinh dưỡng, viêm đường hô hấp; các bệnh giun sán, ngoài da, tai mũi họng, răng miệng, mắt, còi xương...

Bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ thường gây nên do nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiếu chất protein và năng lượng, bị tiêu chảy cấp tính hoặc kéo dài vì thức ăn không thích hợp nên không hấp thụ được; bị nhiễm vi khuẩn, virút có liên quan đến điều kiện vệ sinh môi trường, khả năng kinh tế, chỗ ở, tập quán sinh hoạt...

Bệnh đường hô hấp của trẻ hay xảy ra ở đường hô hấp trên hay dưới do trẻ bị rét, bị yếu vì khả năng bảo vệ miễn dịch kém. Đồng thời có thể bị nhiễm vi khuẩn, virút được lây lan từ trẻ khác hoặc từ người lớn... Khi trẻ bị sốt và ho, người mẹ cần đếm nhịp thở; nếu trẻ thở dưới 40 lần/phút, có thể sử dụng thuốc hạ sốt và theo dõi tại nhà; nếu trẻ thở nhanh trên 50 lần/phút, cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để được bác sĩ khám xác định bệnh và điều trị kịp thời.

Các bệnh giun sán, ngoài da, tai mũi họng, răng miệng thường chiếm tỉ lệ khoảng 90% các trường hợp bệnh ở trẻ em. Tuy nhiên phần lớn các bệnh này có thể phòng ngừa và chữa trị được với điều kiện người mẹ có sự hiểu biết cần thiết về chăm sóc trẻ và biện pháp phòng tránh như phát hiện trẻ bị ngừng phát triển cân nặng thì phải tìm ngay nguyên nhân để khắc phục kịp thời, không để trẻ trở thành suy dinh dưỡng. Trẻ cần được súc miệng, đánh răng, tắm rửa hàng ngày; không để cho trẻ lê la trên đất cát, nền nhà... nhất là về mùa hè; tránh nhiễm trùng da, lây nhiễm các loại giun sán.

Bệnh tiêu chảy cấp tính ở trẻ được xử trí bằng cách cho uống bù nước và điện giải ngay bằng dung dịch oresol hoặc nước cháo gạo, nước dừa non. Đồng thời cho trẻ bú sữa mẹ theo nhu cầu, không để trẻ nhịn ăn. Trong những trường hợp bệnh tiêu chảy cấp tính có diễn biến nặng hơn và xấu đi, phải đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế thuận tiện để được khám và xử trí can thiệp phù hợp.

Bệnh về mắt cũng như bệnh về tai mũi họng ở trẻ cần được phòng ngừa bằng cách giữ gìn vệ sinh sạch sẽ để tránh bị đau mắt đỏ, mắt hột, viêm mũi, viêm họng, viêm tai vì những bệnh này thường hay gặp ở trẻ. Nếu bị mắc các bệnh này sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển lớn lên của trẻ và vừa có thể gây ra các biến chứng trầm trọng khác như viêm cầu thận, thấp tim...

Bệnh còi xương của trẻ ở nước ta hoàn toàn có thể phòng tránh được vì quanh năm đều có đủ ánh nắng mặt trời tại các vùng nếu biết thực hiện đúng phương pháp quy định.

Ngoài ra, những thói quen và tật xấu của người lớn cũng rất có hại làm ảnh hưởng đến trẻ như ăn uống không điều độ, hút thuốc lá ở những nơi có nhiều trẻ em, đánh mắng trẻ thô bạo... Những thói quen, tật xấu này có tác động đến sức khỏe, thể lực và tâm thần của trẻ trước mắt và có thể để lại hậu quả lâu dài suốt cuộc đời của trẻ. Một vấn đề phải hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc kháng sinh cho trẻ vì một số loại kháng sinh như thuốc tetracycline có thể tiêu hủy mầm răng của trẻ, làm răng không mọc được vĩnh viễn hoặc gây vàng răng, sún răng; thuốc streptomycine có thể làm trẻ bị điếc suốt đời, thuốc prednisolone dùng nhiều dễ làm trẻ loãng xương, béo phì và nguy hiểm nhất là che dấu các triệu chứng nhiễm khuẩn trong cơ thể, ức chế khả năng miễn dịch của trẻ. Lưu ý các loại kháng sinh khác đều có khả năng gây độc hại, dị ứng, thậm chí gây sốc phản vệ hoặc làm cho vi khuẩn kháng thuốc. Vì vậy nên cho trẻ dùng thuốc kháng sinh hết sức hạn chế, không được tùy tiện, chỉ khi nào bác sĩ cho đơn thuốc mới được sử dụng kháng sinh

Lời khuyên của thầy thuốcViệc chăm sóc sức khỏe của trẻ từ lúc mới sinh ra đến khi được 5 tuổi là một vấn đề khá quan trọng đối với y học dự phòng và cũng là vấn đề đặc biệt đối với chiến lược bảo vệ sức khỏe con người. Mặc dù giai đoạn phát triển trong 5 năm đầu đời này của trẻ với thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định đến toàn bộ sự trưởng thành của một con người nên việc chăm sóc, theo dõi và kích thích sự phát triển, phát hiện và xử trí kịp thời những bệnh lý thường gặp rất cần thiết. Vì vậy vấn đề này cần phải được mọi người quan tâm, đặc biệt là các bậc cha mẹ và những người lớn có trách nhiệm đối với trẻ.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

Xử trí u nguyên bào thận ở trẻ nhỏ

Nguyên nhân gây ra bệnh còn chưa được rõ ràng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sinh học phân tử đều thống nhất rằng ung thư bắt đầu khi các tế bào xuất hiện lỗi trong DNA của nó. Các lỗi này làm cho tế bào phát triển và phân chia không kiểm soát được và tăng cường tuổi thọ đồng thời tiêu diệt các tế bào lành khác. Các tế bào tích tụ lại với nhau tạo thành một khối u. Trong khối u Wilms, quá trình này xảy ra trong các tế bào thận.

Yếu tố di truyền chỉ bắt gặp trong một số ít các trường hợp. Trong hầu hết trường hợp, không có sự liên hệ giữa cha mẹ và con có thể dẫn đến ung thư. Thay vào đó, một điều gì đó đã xảy ra trong giai đoạn sớm của sự phát triển, gây ra lỗi trong DNA và dẫn đến khối u Wilms.

Tổn thương thận trong bệnh Wilms.

Các yếu tố nguy cơ

Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện khối u Wilms bao gồm:

Nữ giới: trẻ gái có nhiều khả năng phát triển khối u Wilms hơn trẻ trai.

Da đen: trẻ em da đen có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất trong khi trẻ em gốc châu Á có tỉ lệ rủi ro thấp hơn so với trẻ em thuộc các chủng tộc khác.

Tiền sử gia đình: nếu ai đó trong gia đình đã có khối u Wilms, thế hệ sau nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Khối u Wilms hay gặp hơn ở trẻ em có một số bất thường bẩm sinh, bao gồm: Aniridia (không có mống mắt), Hemihypertrophy (phì đại nửa người), ẩn tinh hoàn (tinh hoàn không xuống bìu), hoặc lỗ đái thấp.

Hội chứng WAGR: Hội chứng này bao gồm u Wilms (W), không có mống mắt (A), bất thường của bộ phận sinh dục - tiết niệu (Genitourinary anomalies) và chậm phát triển trí tuệ (Retardation).

Hội chứng Denys-Drash: Hội chứng này bao gồm u Wilms, bệnh thận và lưỡng giới giả nam (pseudohermaphroditism-trong đó một cậu bé được sinh ra có tinh hoàn nhưng có đặc điểm sinh dục thứ phát là của nữ).

Hội chứng Beckwith-Wiedemann. Các triệu chứng của hội chứng này bao gồm thoát vị rốn, lưỡi lớn (macroglossia) và tăng kích thước các cơ quan nội tạng.

Phát hiện bệnh

Bệnh có thể tiến triển âm thầm mà không có triệu chứng gì cho đến khi tình cờ phát hiện. Vì vậy, trẻ em có khối u Wilms có thể tương đối khỏe mạnh.

Một số triệu chứng có thể gặp do sự phát triển của khối u như: bụng to, đau bụng, sốt, đái ra máu. Tuy nhiên, các triệu chứng này là không đặc hiệu và có thể gặp ở rất nhiều bệnh lý khác. Gia đình cần thận trọng, đưa trẻ đi khám khi có bất cứ biểu hiện gì bất thường. Khối u Wilms đa số gặp ở một thận, trường hợp ở hai thận khá hiếm và thường là ở giai đoạn muộn của bệnh.

Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT) và cộng hưởng từ (MRI): đều có thể phát hiện ra bệnh ở đại đa số các trường hợp.

Khi phát hiện ra khối u thận, các bác sĩ có thể cho bệnh nhân sinh thiết khối u dưới hướng dẫn của siêu âm hay CT. Kết quả được gửi đến BS chuyên khoa giải phẫu bệnh và có thể xác định được loại u, mức độ ác tính…

Việc xác định giai đoạn bệnh rất quan trọng, từ đó có thể xác định các phương án điều trị. Cơ sở của việc chẩn đoán giai đoạn u đó là dựa trên kết quả chụp Xquang, CT Scanner ngực, MRI ngực và quét xương để xác định xem ung thư còn đang khu trú hay đã lan tràn ra ngoài thận.

Lời khuyên của thầy thuốc

Tiêu chuẩn điều trị u Wilms là phẫu thuật và hóa trị. Cơ sở điều trị phụ thuộc vào giai đoạn và bản chất mô học của khối u. Có 2 loại mô học của khối u là loại thuận lợi và loại không thuận lợi. Trẻ có khối u có mô học thuận lợi có tỷ lệ sống cao hơn. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều trẻ với mô học không thuận lợi cũng có kết quả tốt.

Bởi vì đây là loại ung thư này hiếm gặp, bố mẹ trẻ nên đưa trẻ đến khám và điều trị tại các trung tâm phẫu thuật và điều trị bổ trợ có kinh nghiệm.

ThS.BS. Trần Đức Tâm

6 dấu hiệu chỉ điểm bệnh ở lợi

Chảy máu

Nếu tình cờ phát hiện có máu trong và sau khi đánh răng hoặc sau khi ăn, bạn cần cảnh giác. Chảy máu lợi không rõ nguyên nhân phần lớn đều báo hiệu bệnh ở lợi và không nên bỏ qua vì đây có thể là dấu hiệu đầu tiên của một số bệnh nguy hiểm hơn.

Đỏ và sưng lợi

Nhiễm trùng quanh răng khiến lợi sưng và mềm. Tình trạng này có thể gây đau dữ dội và khó chịu. Lợi đỏ, sưng là dấu hiệu của bệnh lợi.

Răng nhạy cảm

Nguyên nhân đầu tiên có thể nghĩ tới khi răng bắt đầu bị nhạy cảm là do sâu răng và bạn cần tránh những thực phẩm làm cho tình trạng nhạy cảm này trầm trọng hơn. Nhưng rất có thể răng nhạy cảm là do bệnh lợi chứ không phải do sâu răng và cần được chăm sóc nhiều hơn là chỉ tránh dùng một số loại thực phẩm và đồ uống.

Hôi miệng

Nói chung, những người bị hôi miệng thường tránh những thực phẩm đặc biệt mà họ cho là nguyên nhân khiến hơi thở hôi. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của tình trạng này có thể do sự xuất hiện của cao răng, vi khuẩn và những hạt thức ăn đang phân hủy trong miệng gây bệnh nướu.

Tụt lợi và lộ chân răng

Một dấu hiệu rõ rệt của bệnh nha chu là tụt lợi, dẫn tới lộ chân răng. Đây là do nhiễm trùng lợi vì vi khuẩn phá hủy các mô lợi. Ngoài ra, tụt lợi khiến răng trông như dài hơn. Nếu bạn thấy răng đột ngột trông dài hơn, đó có thể là dấu hiệu bệnh lợi và không nên bỏ qua.

Răng lung lay

Tiêu huỷ mô xương và lợi do bệnh nha chu khiến răng lung lay. Vì mô bị tổn hại, dễ làm răng bị lung lay. Và khoảng cách giữa các răng lớn do răng lung lay.

Nếu thấy bất cứ dấu hiệu bất thường nào, bước đầu tiên là cần đổi sang loại kem đánh răng có tác dụng bảo vệ lợi với kẽm citrate. Kẽm citrate bảo vệ lợi và giúp giảm chảy máu lợi.

BS. Tuyết Mai (Theo Timesofindia)

8 cách phòng ngừa ung thư ở trẻ em

Tại Mỹ, mỗi năm ghi nhận hơn 9000 trẻ em bị ung thư (tức là cứ 450 trẻ có 1 trẻ mắc ung thư). Phổ biến nhất trong các loại ung thư trẻ mắc phải là các bệnh bạch cầu, lymphoma, u não... , tuy nhiên mỗi bệnh lại có nhiều loại khác nhau.

Ung thư thuộc một trong 100 nhóm bệnh gây ra do nguyên nhân các tế bào ác tính trong cơ thể. Ung thư được tách ra thành các loại khác nhau tùy thuộc vào loại tế bào đó có nguồn gốc từ (máu, não, phổi ...), nếu nó xâm chiếm bộ phận cơ thể tạo ra khối u hoặc lây lan đến các cơ quan khác (di căn). Các chuyên gia ung thư trẻ em cho rằng nguyên nhân gây ung thư ở trẻ nhỏ hiện thiên về xu hướng sự kết hợp giữa các yếu tố di truyền và tác động của môi trường. Đó là do gen, những biến đổi di truyền học trong gen của đứa trẻ sinh ra các bệnh ung thư. Tuy nhiên người ta cũng không phủ nhận lối sống và môi trường cũng tác động tới tăng nguy cơ ung thư ở trẻ. Những tác động đó không chỉ là những tiếp xúc của trẻ em trong thời thơ ấu, mà cả những giai đoạn trưởng thành. Điều này một phần do sự giáo dục của cha mẹ, họ có dạy bảo những đứa con của mình phòng tránh những nguy cơ gây ung thư hay không.

Vậy ung thư trẻ em có phòng chống được không và cần phải làm gì để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ở trẻ nhỏ:

Khói thuốc lá

Việc đầu tiên cha mẹ có thể làm để bảo vệ sức khỏe của trẻ là không hút thuốc lá và không cho phép bất cứ ai hút thuốc đến gần con em mình. Thực tế, có 4/5 bệnh ung thư có nguyên nhân do thuốc lá, các chất độc trong khói thuốc tác động tới DNA của các tế bào, làm tăng nguy cơ mắc 14 loại ung thư khác nhau như phổi, bệnh bạch cầu, vòm họng, gan, thận ... Nói cách khác, khói thuốc làm tăng nguy cơ ung thư tới 25%.

Khói ở cuối mỗi điếu thuốc còn nguy hiểm hơn bởi nó có gấp 3 lần carbon monoxide (chất độc hại cho tim, phổi và mạch máu), 10 lần chất nitrosamine và hàng trăm lần khói amoniac. Nếu bạn hút thuốc, nguy cơ con của bạn trở thành một người nghiện thuốc tăng gấp 25 lần. Đây chính là lý do bạn nên bỏ thuốc nếu muốn đem lại sức khỏe tốt nhất cho một đứa trẻ.

Ánh nắng

Bảo vệ trẻ khỏi ánh nắng mặt trời là cách để phòng tránh bệnh ung thư da. Sử dụng kem chống nắng là biện pháp hữu hiệu phòng tránh các tia tử ngoại có hại cho da. Vào những ngày nắng nóng, không để trẻ chơi ngoài trời nắng, có ánh nắng mặt trời trực tiếp chiếu vào. Cần đội mũ, đeo kính cho trẻ khi đi ra ngoài nắng.

Mất cân bằng trong chế độ ăn

Một chế độ ăn uống lành mạnh với nhiều chất xơ, trái cây và rau quả là biện pháp tốt nhất để phòng tránh ung thư. Hạn chế cho trẻ ăn các loại thịt chế biến, thịt đỏ nhiều muối. Khi ăn uống lành mạnh sẽ giúp cơ thể bạn loại bỏ các hóa chất độc hại, ngăn ngừa và sửa chữa các tổn thương của DNA, ngăn chặn sự tích tụ của các hóa chất gây ung thư. Các nhà khoa học đã chứng minh chế ăn uống không khoa học có liên quan tới các bệnh như ung thư vú, miệng, thực quản ....

Không tập thể dục

Tập thể dục là một biện pháp giúp ổn định lượng hormone như estrogen và insulin có liên quan đến ung thư. Lối sống năng hoạt động sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú, ruột, và tử cung.

Thừa cân béo phì

Đây là nguyên nhân dẫn tới ung thư vú, thực quản, ruột, ung thư gan, thận, tuyến tụy và ung thư tử cung.... Duy trì trọng lượng cơ thể cân đối, khỏe mạnh làm giảm khả năng các mô mỡ tác động đến sự tăng trưởng của các tế bào, giảm nguy cơ ung thư. Do vậy béo phì thường liên quan tới ung thư.

Tiếp xúc với hóa chất

Các loại hóa chất, thuốc trừ sâu là nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh ung thư trẻ em. Theo một nghiên cứu, nếu trẻ con sớm tiếp xúc với các loại hóa chất, thuốc trừ sâu làm tăng nguy cơ ung thư máu lên 47%. Cha mẹ hoặc người lớn cần mang đồ bảo hộ khi tiếp xúc với hóa chất này, tránh mang những hóa chất này về nhà có trẻ em. Những hóa chất cực kỳ nguy hiểm với sức khỏe của trẻ là asen, benzen, amiăng .... Đây là những hóa chất dùng trong công nghiệp, thường thấy xuất hiện trong những đồ dùng trong nhà như các loại chất tẩy rửa, sơn .... Nên cách ly trẻ với những hóa chất độc hại này.

Đồ uống có cồn

Rượu làm ảnh hưởng đến mức độ hormon, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư ở người lớn. Nếu cha mẹ sử dụng rượu, đặc biệt thời kỳ mang thai, có nguy cơ con cái họ cũng nghiện rượu sau này. Uống rượu làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú, miệng, vòm họng và đường ruột.

Các bệnh nhiễm trùng

Những loại bệnh nhiễm trùng như viêm gan b, viêm gan C nếu cha mẹ mắc phải, cần phải tiêm phòng đầy đủ cho trẻ ngay từ lúc mới sinh bởi nếu không nguy cơ những đứa trẻ có nguy cơ mắc ung thư gan sau này.

Theo thống kê, virus HPV là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung ở phụ nữ, hiện đã có vaccin phòng ngừa, trẻ em gái nên được tiêm vaccin phòng bệnh khi 11-12 tuổi. Theo Cơ quan kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), vaccin HPV đã giảm 2/3 nguy cơ nhiễm HPV ở trẻ vị thành niên.

Những nguy cơ ung thư ở trẻ em thường khó kiểm soát nhất là khi còn là một bào thai và ở tuổi vị thành niên – lúc cơ thể đang phát triển nhanh và có nhiều thay đổi. Do đó những biện pháp phòng ngừa trên đây sẽ giúp cha mẹ bảo vệ được con em mình khỏi căn bệnh ung thư.

Nguyễn Hoàng Mai

(Theo Outbreaknewstoday)

Tránh ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật, cách gì?

Ngoài các ca ngộ độc cấp thuốc trừ sâu được đưa vào bệnh viện có chẩn đoán rõ ràng, còn số lượng những người bị ảnh hưởng nhẹ hơn hoặc mạn tính thông qua con đường... ăn uống hàng ngày những loại rau củ quả bị nhiễm thuốc trừ sâu là bao nhiêu? Câu trả lời có thể là rất lớn!

Trong nông nghiệp, việc sử dụng các hóa chất trừ sâu, diệt cỏ là cần thiết nhằm bảo vệ mùa màng, tăng năng suất cây trồng. Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc trừ sâu đang được dùng trong nông nghiệp như nhóm thuốc trừ sâu phospho hữu cơ, nhóm thuốc trừ sâu clo hữu cơ, nhóm thuốc trừ sâu loại carbamat, nhóm thuốc trừ sâu pyrethroid, các nhóm thuốc trừ sâu khác như nereistoxin, parathion... Nhiều loại trong số này trên thế giới hiện nay đã cấm dùng do quá nguy hiểm tới sức khỏe con người, ảnh hưởng tới môi trường nhưng ở nước ta vẫn được lén lút sử dụng.

Chăm sóc cho bệnh nhân bị ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật.

Tại sao ngộ độc?

Nguyên nhân của ngộ độc thuốc trừ sâu chủ yếu là do tự tử (khoảng 95%). Số còn lại là do ăn phải rau quả có hàm lượng thuốc tồn dư quá lớn (do rau quả vừa được phun thuốc xong đã được thu hoạch ngay), do uống nhầm, bị đầu độc... Cá biệt cũng có trường hợp ngộ độc cấp do tiếp xúc trực tiếp khi người lao động phun thuốc trừ sâu mà không đảm bảo các qui định về an toàn lao động. Điều đáng lưu ý là những trường hợp ngộ độc cấp do ăn uống, do công tác bảo hộ lao động kém đều chưa có thống kê đầy đủ vì triệu chứng nhẹ dễ bị bỏ qua hoặc bị nhầm với các loại bệnh lý khác. Dần dần, có thể với một lượng thuốc trừ sâu tuy nhỏ nhưng vào cơ thể từ từ, liên tục trong một thời gian dài sẽ gây ngộ độc mạn hoặc những hệ lụy tệ hơn cho cơ thể. Ngộ độc cấp nặng có thể chỉ ảnh hưởng đến một số ít người “chán sống” nhưng ngộ độc mạn thì có thể ảnh hưởng đến toàn xã hội!

Những biểu hiện muôn hình vạn trạng khi bị ngộ độc

Biểu hiện của ngộ độc thuốc trừ sâu rất phong phú và đa dạng. Các biểu hiện này phụ thuộc liều lượng, thời gian thuốc vào cơ thể, phụ thuộc chủng loại thuốc, độc tính của thuốc với con người mạnh hay yếu. Các triệu chứng thường xuất hiện nhanh 10 - 20 phút sau khi bị nhiễm độc qua đường tiêu hóa. Biểu hiện của nhóm thuốc trừ sâu loại phospho hữu cơ chủ yếu là các triệu chứng thích hệ thần kinh phó giao cảm, gây co đồng tử (có khi co nhỏ như đầu đinh), tăng tiết (vã mồ hôi, nhiều nước bọt), tăng co bóp ruột: đau bụng, nôn mửa, co thắt phế quản: tím tái, phù phổi, có thể liệt hô hấp, tụt huyết áp, giật cơ, co cơ, rối loạn phối hợp vận động, hoa mắt, chóng mặt, run, nói khó, nhìn lóa, nặng thì hôn mê. Các biểu hiện ngộ độc cấp thuốc trừ sâu loại carbamat tương tự như ngộ độc phospho hữu cơ nhưng mức độ nhẹ hơn. Ngộ độc thuốc trừ sâu loại clo hữu cơ thường có đau bụng, nôn mửa, co giật, liệt cơ hô hấp. Ngộ độc thuốc trừ sâu loại pyrethroid cũng có các biểu hiện về đường tiêu hóa (nếu ngộ độc qua đường tiêu hóa) và các biểu hiện thần kinh như đau đầu, co giật, hôn mê nếu ngộ độc nặng. Ngộ độc nereistoxin có triệu chứng rất nặng nề về đường tiêu hoá: đau bụng, nôn, tiêu chảy, có thể nôn ra máu và tiêu ra máu dữ dội dẫn đến truỵ mạch, tụt huyết áp (sốc giảm thể tích), tim mạch: tụt huyết áp: thường sớm và nặng nề do phối hợp cả giảm thể tích tuần hoàn, giãn mạch và nhiễm toan. Có thể thấy rối loạn nhịp tim (nhịp nhanh xoang, rung thất, xoắn đỉnh), suy tim, phù phổi cấp, hô hấp: tình trạng nhiễm toan thở nhanh sâu, suy hô hấp, liệt cơ, sặc phổi, thần kinh: co giật giống kiểu động kinh, sau đó là liệt cơ, hôn mê. Tuy nhiên, các biểu hiện nói trên có thể không điển hình ở những thể ngộ độc cấp nhẹ hoặc ngộ độc mạn tính: người bệnh chỉ thấy mệt mỏi, đau đầu, giảm trí nhớ, mất tập trung, ăn uống kém, mất ngủ... và dễ bị quy cho là suy nhược cơ thể, trầm cảm...

Phun thuốc trừ sâu không đảm bảo các qui định về an toàn lao động, có trường hợp người lao động bị ngộ độc cấp.

Tránh ngộ độc thuốc trừ sâu thế nào?

Ngộ độc thuốc trừ sâu cấp và mạn hoàn toàn có thể phòng tránh được bằng các biện pháp như tuyên truyền giáo dục cho mọi người, nhất là bà con nông dân, những người thường xuyên phải sử dụng thuốc trừ sâu về độc tính của thuốc và các biểu hiện của ngộ độc thuốc. Hướng dẫn cho bà con biết về thời gian thu hoạch rau quả an toàn sau khi phun thuốc. Giải quyết tốt các nguyên nhân dẫn đến bệnh nhân tự tử bằng thuốc trừ sâu, đặc biệt là các liệu pháp điều trị tâm lý cho bệnh nhân (ngộ độc do uống thuốc trừ sâu tự tử) sau khi xuất viện, tái hòa nhập cộng đồng. Thêm nữa, cũng phải kể đến các biện pháp thuộc về các cơ quan chức năng như tăng cường quản lý các hóa chất trừ sâu, kiểm tra, kiểm soát thường xuyên để các loại rau quả, thực phẩm còn tồn dư lượng thuốc trừ sâu không được đưa ra thị trường. Xử phạt thật nghiêm những cá nhân, tập thể vì lợi nhuận mà vi phạm các qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm...

TS.BS. Vũ Đức Định

Quả mâm xôi giúp dự phòng các bệnh lý tim mạch

Ngoài ra bổ sung trái cây vào chế độ ăn uống hàng ngày còn giảm nguy cơ mắc một số bệnh, đặc biệt quả mâm xôi, giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch.

Các nhà nghiên cứu của Đại học Hàn Quốc cho thấy việc bổ sung thêm các chất chiết (nước ép) của quả mâm xôi đen có thể làm giảm các triệu chứng của hội chứng chuyển hóa (rối loạn liên quan đến ít nhất ba dấu hiệu: béo bụng, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, kháng insulin hoặc không dung nạp glucose ...) và vì vậy làm giảm nguy cơ các bệnh lý tim mạch.

Công trình nghiên cứu đăng trên Tạp chí “Journal of Medicinal Food”. Họ tiến hành so sánh dấu hiệu của hội chứng chuyển hóa của hai nhóm tình nguyện viên trong hai tuần. Một nhóm dùng hàng ngày 750 mg dịch chiết của quả mâm xôi, nhóm còn lại dùng placebo (giả dược).

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm dùng bổ sung thêm quả mâm xôi có trị số huyết áp giảm, thành động mạch mềm mại hơn và những tế bào giúp sửa chữa những động mạch bị tổn thương lưu thông nhiều, tốt hơn trong cơ thể.

Quả mâm xôi rất giàu flavonoid và chất chống oxy hóa. Dâu tây, mâm xôi, nho và quả việt quất…là những loại trái cây giàu flavonoid. Quả mâm xôi đặc biệt quả mâm xôi đen giúp dự phòng các bệnh lý tim mạch. Quả mâm xôi rất giàu vitamin C, ngoài ra rất giàu chất sắt (0,7 mg mỗi 100 g). Quả mâm xôi là nguồn cung cấp tuyệt vời các khoáng chất: kali, magiê, canxi. Hàm lượng chất xơ cao là phương thuốc “thiên nhiên” rất hiệu quả giúp tăng nhu động ruột.

Ngoài ra, khoa học cũng đã chứng minh cho thấy quả mâm xôi có tác dụng dự phòng ung thư, tác dụng chống viêm, dự phòng nguy cơ các bệnh lý tim mạch, các rối loạn chuyển hóa….

Bs Ái Thủy

(Theo TopSante)

Các loại bệnh trầm cảm thường gặp

Đặc điểm và nguyên nhân trầm cảm

Thời gian gần đây, số người bị bệnh trầm cảm ngày càng có xu hướng gia tăng. Bệnh do nhiều nguyên nhân gây nên như: bị sang chấn tâm lý mạnh gọi là sốc xúc cảm hoặc căng thẳng tâm lý gọi là stress tuy không mạnh nhưng kéo dài. Sang chấn tâm lý thường hay gặp nhất, yếu tố tâm lý quan trọng đến mức có thể tạo cơ sở để tách ra thành một thể bệnh riêng gọi là trầm cảm phản ứng; sốc xúc cảm cũng do hiện tượng quá vui hoặc quá sung sướng tạo nên các cơn trầm cảm. Các yếu tố tâm lý xã hội, các trường hợp khó thích nghi với môi trường khác lạ, có hoàn cảnh sống cô đơn, sống biệt lập với người thân; các yếu tố nội sinh trong các bệnh loạn thần hưng trầm cảm, tâm thần phân liệt, trầm cảm thoái triển... đều có thể gây nên hiện tượng trầm cảm. Đồng thời, thể tạng người có loại hình sinh học kiểu người mập mạp có liên quan đến trầm cảm chu kỳ; yếu tố di truyền cũng có tác động ảnh hưởng lớn đến một số thể bệnh trầm cảm. Bệnh trầm cảm có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở độ tuổi trên 50. Ngoài ra, trạng thái trầm cảm còn là biểu hiện triệu chứng của nhiều bệnh ở não như: nhiễm khuẩn trong sọ não, liệt toàn thể tiến triển, chấn thương sọ não, xơ mạch máu não...; các bệnh toàn thân làm thay đổi sinh lý hay làm suy nhược cơ thể gồm lao, ung thư, bệnh về máu, rối loạn nội tiết, nhiễm độc, tự nhiễm độc... và một số trường hợp không rõ nguyên nhân.

Ảnh minh họa

Các loại trầm cảm thường gặp

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh trầm cảm thường có nhiều loại khác nhau như: trầm cảm nặng, trầm cảm nhẹ, trầm cảm xuất hiện từng giai đoạn, trầm cảm tái diễn, trầm cảm nặng và tái diễn, trầm cảm mức độ nhẹ liên tục, trầm cảm di chứng của rối loạn khí sắc trầm cảm, rối loạn phân liệt cảm xúc.

Trầm cảm nặng: xuất hiện đơn độc, suốt đời chỉ có một cơn, trước đây loại trầm cảm này được gọi là hiện tượng trầm uất, trầm cảm kích động, có biểu hiện như đặc điểm trầm cảm đã nêu ở trên. Bệnh lý trầm cảm kéo dài trên 2 tuần, gây sự đau buồn, trở ngại đối với hoạt động hàng ngày.

Trầm cảm nhẹ: xuất hiện đơn độc, khác với trầm cảm nặng xuất hiện đơn độc về mức độ, không gây nên sự đau buồn và trở ngại đối với hoạt động hàng ngày, thường kéo dài ít nhất 2 tuần; không có hiện tượng hoang tưởng, ảo giác.

Trầm cảm xuất hiện từng giai đoạn: tái diễn nhiều đợt và có thể xen kẽ với giai đoạn hưng cảm. Giữa các giai đoạn trầm cảm và hưng cảm là thời kỳ khí sắc bình ổn hoàn toàn. Loại trầm cảm này còn được gọi là bệnh loạn thần hưng trầm cảm. Tỉ lệ mắc bệnh ở nam nữ gần như nhau, sau tuổi trung niên thì giai đoạn trầm cảm thường xuất hiện nhiều hơn giai đoạn hưng cảm và kéo dài hơn.

Trầm cảm tái diễn: biểu hiện giống như loại trầm cảm nặng và trầm cảm nhẹ đã nêu trên nhưng không xuất hiện đơn độc mà tái diễn nhiều đợt trong đời người. Giai đoạn trầm cảm kéo dài từ 3 - 12 tháng, trung bình 6 tháng. Bệnh thường khởi phát chậm, thường gặp ở độ tuổi từ 50. Phần lớn bệnh được phục hồi hoàn toàn và tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm loại này ở nữ ghi nhận gấp đôi nam.

Trầm cảm nặng và tái diễn: gần giống như các bệnh trước kia gọi là trầm cảm, trầm uất, loạn thần hưng trầm cảm, trầm cảm sinh thể, trầm cảm nội sinh. Trong đời, con người ít nhất thường có hai giai đoạn trầm cảm nặng hay nhẹ tái diễn, mỗi giai đoạn thường kéo dài trên 2 tuần, giữa hai giai đoạn trầm cảm phải có một thời kỳ lành bệnh ít nhất 6 tháng.

Trầm cảm mức độ nhẹ: liên tục biểu hiện, đơn độc nhưng kéo dài, có khi gần hết tuổi thanh niên, gây nên sự đau buồn và trở ngại cho sinh hoạt lao động, làm việc và học tập của người bệnh. Bệnh có thể nặng lên và tiến triển như rối loạn trầm cảm tái diễn hay xen kẽ với các giai đoạn hưng cảm. Nếu các giai đoạn trầm cảm và hưng cảm xen kẽ nhau được gọi là khí sắc tuần hoàn; nếu mức độ khí sắc trầm, nhẹ, kéo dài thì gọi là loạn khí sắc.

Trầm cảm di chứng của các rối loạn khí sắc trầm cảm: biểu hiện đơn độc hoặc tái diễn nhưng mức độ nhẹ, không kéo dài gồm các trạng thái hỗn hợp trầm cảm và hưng cảm, trầm cảm ẩn, rối loạn xúc cảm khác không liên quan đến nghiện rượu, nghiện ma túy, rối loạn nội tiết hay rối loạn tâm thần thực tổn.

Phân liệt cảm xúc: biểu hiện các triệu chứng phân liệt và triệu chứng cảm xúc xuất hiện đồng thời, nổi bật như nhau; lưu ý thể trầm cảm xuất hiện sau cơn loạn thần cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt không xếp vào loại trầm cảm này. Các triệu chứng trầm cảm biểu hiện như đã nêu ở trên. Các triệu chứng phân liệt ở bệnh nhân biểu hiện ý nghĩ vang lên thành tiếng nói ở trong đầu, bị những lực lượng xa lạ nào đó điều khiển, mưu hại; nghe thấy những tiếng nói gièm pha, buộc tội mà thực tế không có... Phần lớn bệnh nhân được phục hồi hoàn toàn sau điều trị, một số ít trường hợp tiến triển thành thiếu sót phân liệt như thờ ơ với ngoại cảnh, có hành vi kỳ dị...

Các thể lâm sàng của trầm cảm

Theo các nhà khoa học, rối loạn trầm cảm là hiện tượng xảy ra rất phúc tạp và rất đa dạng. Các thể lâm sàng trầm cảm thường gặp là: trầm cảm nội sinh, trầm cảm tâm sinh, trầm cảm triệu chứng.

Trầm cảm nội sinh: thể trầm cảm này có thời kỳ đầu tiến triển từ vài tuần đến vài tháng với các hiện tượng mất ngủ, mệt mỏi, giảm khí sắc, lo lắng đến sức khỏe và tương lai; thời kỳ toàn phát có 3 triệu chứng đặc trưng là ức chế cảm xúc, ức chế tư duy và ức chế vận động. Trầm cảm nội sinh có đặc điểm là biểu biện nặng lên vào buổi sáng và nhẹ đi về buổi tối, tiến triển thường xuất hiện từng giai đoạn, giữa các giai đoạn khí sắc bình ổn hoàn toàn, không làm biến đổi nhân cách và không đi đến sa sút tâm thần. Ngoài thể lâm sàng điển hình đã nêu trên, còn có các thể lâm sàng không điển hình được ghi nhận như: trầm cảm sững sờ, trầm cảm kích động, trầm cảm nghi bệnh, trầm cảm ám ảnh, trầm cảm hoang tưởng, trầm cảm ẩn, trầm cảm ở trẻ em...

Trầm cảm tâm sinh: đây là thể trầm cảm có trạng thái phản ứng của một nhân cách yếu đối với một môi trường sống không thuận lợi. Đặc điểm biểu hiện lâm sàng không sâu sắc như trầm cảm nội sinh, bệnh nhân ít có ý tưởng bị buộc tội, chúng mang sắc thái loạn cảm như cơn khóc, cơn than vãn về nỗi khó khăn, nỗi bất hạnh, cho rằng mình là nạn nhân. Thể trầm cảm này gồm 2 nhóm chính không đồng nhất là trầm cảm phản ứng và trầm cảm tâm căn. Trầm cảm phản ứng là một thể của loạn thần phản ứng với một hoạt động tâm thần có thể làm rối loạn đến mức mất tính toàn vẹn, tính thống nhất; có những rối loạn về hoạt động nhận thức, ý thức, tiếp xúc, hành vi. Trầm cảm tâm căn có triệu chứng của bệnh tâm căn như khí sắc trầm, giảm hứng thú, dễ cảm động; lo lắng về bệnh tật, về những điều không may có thể xảy ra.

Trầm cảm triệu chứng: có đặc điểm lâm sàng từ nhẹ đến nặng, chúng tồn tại trong một giai đoạn hay kéo dài trong quá trình bệnh tiến triển. Trầm cảm diễn biến tùy theo sự tiến triển của bệnh chính, cường độ của tác nhân gây hại và sức phản ứng của cơ thể. Các hội chứng có thể gặp là hội chứng trầm cảm paranoid và hội chứng trầm cảm không điển hình. Hội chứng trầm cảm paranoid có các triệu chứng buồn rầu, sợ hãi, kích động, lo âu, ảo tưởng lời nói, hoang tưởng bị tội; có thể kèm theo rối loạn ý thức, mê sảng, lú lẫn, kích động giống động kinh và thường tăng lên về đêm. Hội chứng trầm cảm không điển hình có các triệu chứng kích động lo âu như than khóc kèm theo các ý tưởng nghi bệnh, loạn cảm giác bản thể như khó chịu ở những vùng khác nhau. Trầm cảm triệu chứng có thể gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn như bệnh cúm, các bệnh thực tổn của não như xơ vữa động mạch não, các bệnh nội tiết như bệnh Cushing và ngay trong cả quá trình điều trị với loại thuốc steroide.

Phòng bệnhNhư vậy rối loạn trầm cảm trên thực tế có nhiều loại khác nhau khá phong phú và đa dạng; chính ngay cả bản thân người bệnh và người thân có thể không biết hoặc không để ý đến. Dù mắc loại bệnh trầm cảm nào nhưng trong cơn trầm cảm bột phát sẽ dẫn đến một hệ lụy khá tồi tệ là bệnh nhân có thể có hành vi tự sát hoặc giết chết người thân rồi tự sát. Vì vậy, việc phòng bệnh trầm cảm là một vấn đề quan trọng cần được lưu ý hiện nay do bệnh ngày càng có xu hướng phát triển trong xã hội hiện đại. Phòng bệnh rối loạn trầm cảm chủ yếu là chú trọng đến việc giáo dục nhân cách trẻ em từ khi còn nhỏ để sau này lớn lên có được các phẩm chất hòa nhập dễ dàng với cuộc sống, nghề nghiệp xã hội; đồng thời có khả năng thích ứng linh hoạt với những hoàn cảnh bất lợi luôn luôn có thể xảy ra. Cần tổ chức lao động, làm việc, sinh hoạt và nghỉ ngơi hợp lý; tránh tình trạng căng thẳng về cảm xúc và các sang chấn tâm lý; phát hiện và điều trị sớm các bệnh của cơ thể. Ngoài ra, khuyến khích thực hiện cuộc sống với mẫu gia đình có cả ba thế hệ cùng sinh sống. Cần quan tâm chăm sóc trẻ mồ côi, người có hoàn cảnh khó khăn; đặc biệt là người tàn tật và người già cô đơn không nơi nương tựa…

Mẫu gia đình có cả ba thế hệ cùng sinh sống giúp phòng bệnh trầm cảm

BS. NGUYỄN VÕ HINH

8 thực phẩm giúp bạn bỏ thuốc lá

Thuốc lá đôi khi là người bạn đồng hành của nam giới. Tuy nhiên, lúc này hay lúc khác họ quyết định từ bỏ vì lý do sức khỏe hay nhiều lý do khác. Nhưng thật khó để bỏ vì không có gì để khỏa lấp trống vắng bằng điếu thuốc lá !!

Nhưng thật sự có nhiều loại thực phẩm là giải pháp tốt giúp bạn bỏ được thuốc lá, miễn sao bạn chọn đúng loại thực phẩm.

8-thuc-pham-giup-ban-bo-thuoc-la

Theo nghiên cứu của Đại học Duke thì một số loại thực phẩm đã ảnh hưởng việc sản xuất nước bọt ở trong miệng cũng như là thay đổi nhận biết mùi của thuốc lá và điều này khiến cho việc hút thuốc lá ít thi vị hơn.

Ngoài ra một số thực phẩm có tác dụng chống stress, giải độc, giảm cảm giác đói. Những điều này như là một phần trong cách cai thuốc lá. Đặc biệt là những thực phẩm giàu chất dinh dưỡng như vitamin C, vitamin B nhất là vitamin B6, B9, B12 và omega 3.

1. Sữa và các sản phẩm của sữa

Theo nghiên cứu của Đại học Duke thì sữa giúp giảm cơn thèm thuốc lá vì nó để lại hương vị lạ trong miệng và giúp đẩy lùi cảm giác thèm thuốc. Hơn nữa sữa chứa nhiều protein cung cấp năng lượng cho cơ thể. Khi có những cơn thèm thuốc nên ăn sữa chua hoặc một miếng pho mát.

2. Trái cây và rau quả

Theo nghiên cứu của Đại học Buffalo thì trái cây và ra quả giúp bỏ thuốc lá. Nghiên cứu cho thấy rằng những người hút thuốc lá mà ăn nhiều trái cây thì khả năng bỏ thuốc gấp ba lần so với những người muốn bỏ thuốc mà không ăn nhiều trái cây rau quả. Sỡ dĩ như vậy vì trái cây, rau quả làm thay đổi hương vị của nicotin trong miệng và gây cảm giác khó chịu. Hơn nữa trái cây chứa nhiều vitamin, cung cấp cho cơ thể nhiều năng lượng và chất dinh dưỡng giúp cải thiện tâm trạng và điều này khiến cho họ có nghị lực hơn, kiên quyết trong việc bỏ thuốc lá.

3. Chuối

Vấn đề thường gặp nhất ở người muốn bỏ thuốc lá đó là họ cảm thấy thiếu năng lượng đặc biệt lo lắng, căng thẳng do thiếu nicotin. Đây là lý do tại sao bạn nên ăn chuối vì chuối giàu carbohydrate, magiê và vitamin C tăng cường năng lượng và làm dịu cơ thể có dấu hiệu stress.

4. Trái cây màu đỏ

Theo Bác sĩ Alain Tuan Qui, trong số các trái cây giúp bạn bỏ thuốc lá thì hãy nên chọn trái cây màu đỏ vì chứa nhiều chất chống oxy hóa như việt quất, mâm xôi, dâu tây ….

5. Rau xanh

Theo Bác sĩ Alain Tuan Qui khuyên nên chọn những rau có màu xanh đậm như rau bina vì rất giàu vitamin B9 và magie giúp bạn thanh thản tâm hồn khi phải đối mặt với việc cai thuốc !

6. Hạt hướng dương

Các nhà nghiên cứu cho rằng hạt hướng dương có tác dụng tốt cho tâm trí giống như thuốc lá. Hạt hướng dương có tác dụng làm dịu tâm trí vì chứa nhiều vitamin B giúp nuôi dưỡng hệ thần kinh (lưu ý không nên ăn quá nhiều vì trong hạt cũng chứa nhiều chất béo).

7. Đinh hương

Đinh hương không giúp bạn bỏ thuốc lá nhưng giảm được số lượng điếu thuốc hút. Khi bạn hút điếu thuốc đầu tiên trong ngày, bạn hãy dùng một ít đinh hương, điều này để lại hương vị nicotin trong miệng khoảng vài giờ, nhờ vậy bạn sẽ không cảm thấy thèm để hút điếu thứ hai.

8. Cá béo

Cá béo như cá mòi, cá thu, cá trích hay cá hồi. Theo Alain Tuấn Qui thì trong cá béo giàu omega 3 và phospho giúp bảo vệ hệ thống thần kinh trung ương, điều này cần thiết khi cai thuốc lá.

Bs Ái Thủy

(theo Docteur Bonne Bouffe)

Mẹo đơn giản giúp cải thiện thị lực

Ngày nay, những rối loạn thị lực có xu hướng gia tăng do kết quả của việc tiếp xúc quá nhiều với màn hình máy tính, điện thoại thông minh…Bên cạnh đó rất nhiều yếu tố như gen, thiếu chất dinh dưỡng thiết yếu cũng có thể là thủ phạm gây ra tình trạng này.

Dưới đây là những mẹo đơn giản giúp bạn cải thiện thị lực:

1. Tập thể dục mắt

Tập thể dục mắt là cách đơn giản và hiệu quả nhất để cải thiện thị lực. Bạn có thể thực hiện những bài tập đơn giản bất cứ khi nào và bất cứ đâu. Chúng rất có lợi trong việc kích thích lưu thông máu và giúp các cơ linh hoạt hơn.

Tap-the-duc-cho-mat-giup-cai-thien-thi-luc

2. Hạnh nhân

Hạnh nhân là nguồn đáng kể vitamin E và các chất chống oxy hóa thiết yếu. Ăn hạnh nhân hàng ngày có thể cải thiện thị lực một cách hiệu quả. Chỉ cần ngâm một vài hạt hạnh nhân trong nước qua đêm và ăn chúng vào buổi sáng.

3. Quả amla

Amla là một loại quả có nguồn gốc Ấn Độ, rất giàu vitamin C. Các tác dụng chữa bệnh của nó đặc biệt là tác dụng cải thiện thị lực nổi tiếng khắp thế giới.

4. Thư giãn mắt

Palming là kỹ thuật thư giãn mắt (úp 2 bàn tay vào mắt, lòng bàn tay trái che toàn bộ hốc mắt trái, lòng bàn tay phải che toàn bộ hốc mắt phải, 5 ngón tay trái để chéo 5 ngón tay phải – để chính giữa trán, tay trái để bên trong, tay phải để bên ngoài). Mục đích chính của kỹ thuật này là thúc đẩy sự linh hoạt của thủy tinh thể và các cơ. Kỹ thuật vô hại, không tốn kém và đơn giản này có thể thực hiện hàng ngày để có thị lực tốt hơn.

5. Thì là

Hạt thì là chứa nhiều dưỡng chất thiết yếu giúp cải thiện thị lực một cách tự nhiên. Hơn nữa, sử dụng thường xuyên loại hạt này có thể ngăn ngừa các nhiễm trùng và bảo vệ thị lực.

6. Chế độ ăn uống lành mạnh

Ăn uống lành mạnh là điều bắt buộc để cải thiện thị lực và kiểm soát tình trạng bệnh. Đặc biệt các loại thực phẩm giàu axit béo omega-3 và vitamin E có thể tăng cường đáng kể sức khỏe của mắt.

BS Cẩm Tú/Univadis

(theo Boldsky)

Dấu hiệu cảnh báo sớm ung thư

Có nhiều loại bệnh ung thư, mỗi bệnh lại có những biểu hiện khác nhau. Dấu hiệu cảnh báo sớm cũng phụ thuộc vào bộ phận ung thư. Mặt khác, dấu hiệu ban đầu của ung thư thường không rõ rệt. Nhiều trường hợp bệnh ung thư lại không có dấu hiệu gì hoặc chỉ biểu hiện ở giai đoạn cuối. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể biết một số dấu hiệu cảnh báo sớm của bệnh. Các dấu hiệu từ trên xuống dưới cơ thể, và các biểu hiện toàn thân đó là:

Viêm loét miệng

Bệnh nhân thấy tự nhiên bị viêm loét miệng, lâu lành. Có thể thấy bạch sản là một vùng tổn thương tiền ung thư có thể xảy ra với các kích thích liên tục. Nếu có những vệt trắng cũng như các mảng trắng dày trên lưỡi là những biểu hiện của sự thay đổi trong niêm mạc miệng, có thể dẫn đến ung thư. Nhiều người bị loét miệng do nhiễm virus, vết loét có thể gây đau nhưng sẽ khỏi sau một vài ngày. Trường hợp một vết loét miệng gây đau hoặc không đau nhưng kéo dài từ 3-4 tuần thì cần chú ý bởi có thể là do ung thư trên lưỡi hoặc xung quanh miệng.

Khàn tiếng hoặc giọng ồm

Bình thường giọng nói của bạn trong thanh. Nhưng bắt đầu từ một ngày nào đó, bạn thấy khàn tiếng hoặc giọng nói ồm bất thường kéo dài từ 2-3 tuần thì phải nghĩ đến dấu hiệu cảnh báo ung thư thanh quản. Với kỹ thuật phẫu thuật hiện nay, bác sĩ sẽ loại bỏ sự lan rộng của tế bào ung thư nên giọng nói của bạn vẫn có thể giữ được nếu bệnh được phát hiện sớm.

Khó nuốt

Một số bệnh như đột quỵ, chấn thương não... có thể gây khó nuốt. Tuy nhiên, còn có nguyên nhân khác đó là dấu hiệu sớm của ung thư vùng cổ hoặc vùng đầu, như ung thư dây thanh quản, thực quản, miệng và lưỡi. Ngoài ra, còn có triệu chứng đau bên trong miệng.

Ở một số người có thể bị khó nuốt, nhưng sau đó tự xem xét thấy không đau hay viêm họng gì nên đã bỏ qua nó. Nhưng theo thời gian, dù họ thay đổi món ăn có nhiều chất lỏng hơn nhưng vẫn khó nuốt. Khi đó có thể là dấu hiệu của ung thư đường tiêu hóa, hay gặp nhất là ung thư thực quản, vòm họng hoặc dạ dày.

Ho kéo dài

Nếu bạn bị ho kéo dài và không thuyên giảm, khi đã loại trừ ho do cảm lạnh, cúm và các bệnh dị ứng, bệnh lao phải nghĩ đến dấu hiệu của ung thư. Ho kéo dài được hiểu là ho liên tục hơn 3-4 tuần. Ho như vậy có thể là triệu chứng của bệnh ung thư. Nếu ho kéo dài đồng thời có những biểu hiện kèm theo như đau ngực, ho ra máu... có thể là dấu hiệu ung thư phổi.

Ho kéo dài có thể là một triệu chứng cảnh báo sớm của ung thư.

Bị đầy hơi

Tình trạng đầy hơi thường xảy ra khi bị khó tiêu, giữ nước...Thế nhưng, nếu bạn bị đầy hơi thường xuyên, đầy hơi kèm theo đau bụng hoặc đau vùng xương chậu mà không liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt (ở nữ) thì bạn nên đi khám, bởi đó có thể là dấu hiệu của ung thư buồng trứng. Loại ung thư này rất khó phát hiện ở giai đoạn sớm.

Ợ nóng kéo dài liên tục

Nếu bạn ăn đồ ăn nhiều chất béo hoặc đồ cay mà bị đau hoặc khó chịu sau khi ăn là bình thường. Nhưng nếu những triệu chứng này kéo dài nhiều hơn 2-3 tuần và bạn phải dùng thuốc kháng axit thường xuyên, thì nó có thể là dấu hiệu của ung thư dạ dày hoặc ung thư thực quản, ung thư tuyến tụy...

Đi tiểu nhiều

Ở đàn ông có tuổi, tuyến tiền liệt sẽ bị phì đại, bị xơ hóa điều này có thể dẫn tới đi tiểu nhiều, nhất là vào ban đêm. Nhưng nếu bạn đi tiểu nhiều lần trong vài giờ, hoặc gặp khó khăn khi đi tiểu, có thể bạn đang mắc ung thư tuyến tiền liệt.

Phân nát lỏng

Bất kỳ sự thay đổi đột ngột trong thói quen đi vệ sinh, bao gồm táo bón, phân lỏng hơn so với thông thường hay đau có cảm giác lạ kéo dài hoặc đau âm ỉ thì cần được kiểm tra. Đó có thể ám hiệu của ung thư ruột hoặc trong trường hợp hiếm hơn là ung thư buồng trứng hoặc tuyến tụy.

Ra máu sau mãn kinh

Trong giai đoạn mãn kinh, nếu bạn bị chảy máu sau thời kỳ mãn kinh thì cần phải đi khám ngay, vì đây có thể là dấu hiệu sớm của bệnh ung thư nội mạc tử cung.

Gầy sút nhanh, mệt mỏi vô cớ

Bạn thấy gầy sút nhanh, có thể giảm hơn 10% trọng lượng cơ thể của mình trong khoảng 3 tháng thì đó có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư. Dấu hiệu giảm cân xảy ra ở hầu hết các bệnh ung thư như ung thư tuyến tụy, dạ dày, thực quản, ung thư đại tràng hoặc ung thư phổi. Bên cạnh đó, dấu hiệu mệt mỏi cũng là cảnh báo của bệnh ung thư mà chúng ta dễ bỏ qua. Sự mệt mỏi do ung thư rất vô cớ và thường khác với sự mệt mỏi do làm việc vất vả. Mệt mỏi do ung thư rất bải hoải và người bệnh không cảm thấy đỡ dù đã nghỉ ngơi. Dấu hiệu này thường thấy ở ung thư máu, ung thư ruột kết, ung thư dạ dày...

Hay bị cảm cúm

Nếu bạn hay bị sốt không rõ nguyên nhân, có thể do ung thư. Các nhà khoa học lý giải: đó là do ung thư có thể ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, làm cho cơ thể không có sức đề kháng với các viêm nhiễm gây cúm, sốt. Đa số các bệnh ung thư sẽ gây sốt tại một số thời điểm. Sốt thường xảy ra sau khi ung thư đã lan từ vị trí ban đầu của nó và di căn đến phần khác của cơ thể. Sốt cũng có thể do bệnh ung thư máu như u lympho hoặc bệnh bạch cầu, ung thư hạch.

Thay đổi ở da

Một ngày nào đo bạn thấy nốt ruồi quen thuộc của bạn to lên đáng kể thì đó là dấu hiệu đáng ngờ của ung thư nốt ruồi. Các sự thay đổi về cấu trúc của da, mụn cóc, nốt ruồi hoặc đốm sắc tố đều có thể là những dấu hiệu của ung thư da. Các khối u ác tính là một dạng phổ biến của ung thư da và có biểu hiện giống như những đốm trên da, thường có màu sắc, kích thước, hình dáng không bình thường.

Đau

Ở những người cao tuổi, thường bị mệt mỏi và đau mình mẩy. Nhưng cảm giác đau mơ hồ, có thể là một triệu chứng sớm của một số bệnh ung thư. Nếu bạn bị đau đầu không làm cách nào dứt được dù đã uống thuốc giảm đau có thể là dấu hiệu của khối u ác tính ở não. Nếu đau ở lưng là dấu hiệu của ung thư ruột kết hoặc ung thư buồng trứng. Các bệnh ung thư xương, ung thư dương vật cũng gây đau nhiều.

Chảy máu bất thường

Trường hợp bạn bắt đầu ho ra máu, khạc nhổ ra máu, có máu trong phân hoặc trong nước tiểu, thì bạn nên đi khám bệnh ngay. Bởi ho ra máu là dấu hiệu của ung thư phổi (sau khi đã loại trừ bệnh lao). Thấy máu trong phân là dấu hiệu của ung thư ruột kết. Đi tiểu ra máu, là cảnh báo sớm của ung thư thận hoặc ung thư bàng quang. Chảy máu núm vú báo động ung thư vú.

Viêm sưng hạch

Tình cờ bạn phát hiện được một khối u hoặc sưng ở các hạch trong nách hay ở cổ hoặc ở bất cứ nơi nào khác thì cần phải lưu ý vì đó có thể là dấu hiệu của ung thư máu và bạch huyết.

Sờ thấy khối u

Có một số ung thư cảm nhận được qua da. Đó là ung thư vú, ung thư dương vật, ung thư hạch và ung thư gan, tụy. Tuy có vài dạng khác của ung thư vú không xuất hiện u, cục nhưng da cứ mẩn đỏ, dầy lên.

Vết loét không lành

Có những dấu hiệu khác của ung thư da đó là những khối u nhỏ trên da sẽ lớn dần lên, trên đó là những vết loét không thể lành từ 2-4 tuần. Những khối u hoặc các vết loét này thường không đau nhưng có thể gây chảy máu hoặc ngứa.

Đổ mồ hôi ban đêm

Nếu bạn bị đổ nhiều mồ hôi vào ban đêm có thể là một dấu hiệu của bệnh ung thư tế bào lympho, một khối u đang phát triển trong tế bào bạch huyết. Những người mắc ung thư thế bào lympho có sự trao đổi chất trong cơ thể lớn do các tế bào lympho sử dụng rất nhiều năng lượng. Vì vậy, họ thường đổ rất nhiều mồ hôi vào ban đêm, kèm theo là một khối u có đường kính từ 2cm trở lên ở cổ, nách hoặc háng thì cần nghĩ đến ung thư.

ThS.Mai Đức Trung

Cách đúng xử trí sốt virut ở trẻ em

Sốt virut là bệnh gặp chủ yếu trong mùa hè ở trẻ, bệnh rất dễ lây qua đường hô hấp với triệu chứng điển hình là trẻ đột ngột sốt cao 39 - 40 độ C, kèm theo các triệu chứng khác như ho, chảy mũi, rối loạn tiêu hóa, nổi ban...

Triệu chứng

Biểu hiện thường gặp ở những trường hợp sốt do virut là trẻ thường sốt cao từ 38-39oC, thậm chí 40-41oC. Trong cơn sốt trẻ thường mệt mỏi và ít đáp ứng với các loại thuốc hạ sốt thông thường. Khi hạ sốt trẻ lại tỉnh táo, chơi bình thường; đau mình mẩy: ở trẻ lớn thì đau cơ bắp, trẻ thường kêu đau khắp mình, trẻ nhỏ có thể quấy khóc; đau đầu: một số trường hợp trẻ có thể đau đầu nhưng vẫn tỉnh táo, không kích thích, Nếu nguyên nhân gây sốt do virut đường tiêu hóa thì trẻ bị rối loạn tiêu hoá, đi ngoài, cũng có thể xuất hiện muộn hơn vài ngày sau khi sốt với đặc điểm là phân lỏng, không có máu, chất nhày. Ban đỏ thường xuất hiện 2-3 ngày sau khi sốt, khi xuất hiện ban thì sẽ đỡ sốt.

Diễn biến của sốt virut

Cơ thể trẻ em do chưa có sức đề kháng cao nên rất dễ bị nhiễm bệnh, trong những ngày hè, nhiều trẻ phải nhập viện do sốt virut là hiện tượng rất hay gặp tại khoa nhi các bệnh viện. Trong điều kiện bình thường cũng có những virut ký sinh trên đường hô hấp, tiêu hóa... khi gặp điều kiện thuận lợi chúng phát triển, xâm nhập cơ thể và gây bệnh.

Một số loại virut thường gây sốt như: Myxo virut, Coxackie, Entero virut, sởi, ... Virut có thể lây từ người này sang người khác, đặc biệt là nhiễm virut qua đường hô hấp, tiêu hóa... có thể gây thành dịch. Một trong các triệu chứng nổi bật của tình trạng nhiễm virut là sốt cao. Trong thuật ngữ y học thường gọi là sốt virut. Các triệu chứng trên thường xuất hiện rất rầm rộ, sau 3-5 ngày sẽ giảm dần và mất đi, trẻ trở lại khỏe mạnh.

Xử trí và phòng ngừa sốt do virut ở trẻ

Đối với các bệnh do virut gây ra hầu hết chưa có thuốc đặc hiệu, chủ yếu là điều trị chứng, đối với sốt virut ở trẻ em cũng vậy. Do đó các biện pháp thường áp dụng là:

- Cặp nhiệt độ: Đặt nhiệt kế ở nách hoặc hậu môn. Nhiệt kế phải được giữ trong nách ít nhất 3 phút, cánh tay của trẻ áp sát vào ngực. Nhiệt độ của trẻ sẽ là số ghi trên nhiệt kế cộng thêm 0,3 - 0,4 độ. Thí dụ nhiệt kế ghi 38oC thì thân nhiệt thực sự của trẻ là 38,4oC.

Hạ sốt: Thường dùng paracetamol liều 10mg/kg, 6 giờ/1 lần.

Chườm mát cho trẻ bằng khăn mát, lau khô mồ hôi, để trẻ nằm nơi thoáng mát, mặc quần áo mỏng. Cởi quần áo, bỏ bớt chăn cho trẻ khi đang sốt cao.

Lau bằng khăn ướt nước ấm: Dùng khăn mềm, sạch, nhúng nước ấm (1 cốc nước sôi + 3-3,5 cốc nước nguội) lau lên khắp mình trẻ; cho tới khi thân nhiệt xuống 37oC. Tuyệt đối không được chườm nước lạnh vì sẽ gây sốt cao thêm do cơ chế co mạch ngoại vi.

Chống co giật: Nếu trẻ sốt cao trên 38,5oC thì dùng thuốc hạ sốt kèm theo thuốc chống co giật theo chỉ định của bác sĩ, đặc biệt là những trẻ có tiền sử co giật khi sốt cao.

Bù nước và điện giải: Nếu trẻ còn bú tiếp tục cho bú nhiều hơn bình thường, và cho uống bù nước ORS (Oresol) theo chỉ dẫn. Trường hợp trẻ không uống được thì dùng bông sạch chấm nước trên vào môi, miệng bé liên tục để niêm mạc môi, miệng hấp thu nước, tránh thiếu nước và chất điện giải.

Chống bội nhiễm: Vệ sinh sạch sẽ cho trẻ, nhỏ mắt, mũi bằng natriclorid 0,9%, tránh bội nhiễm vi khuẩn đường hô hấp.

Dinh dưỡng: Cần chú ý tới chế độ dinh dưỡng, nên cho trẻ ăn loãng như cháo, súp, uống nhiều nước, nước lọc, nước hoa quả như cam, chanh...

Vệ sinh: Vệ sinh cơ thể cho trẻ sạch sẽ, tắm bằng nước ấm trong phòng kín.

Chú ý: Phải đưa trẻ đến khám ngay tại trung tâm y tế khi có các dấu hiệu sau: khi trẻ sốt cao trên 38,5oC, đặc biệt là trên 39oC mà dùng thuốc hạ sốt không đáp ứng. Lơ mơ, li bì, ngủ nhiều, xuất hiện co giật, đau đầu liên tục và tăng dần, buồn nôn, nôn khan nhiều lần, sốt kéo dài trên 5 ngày.

Sốt virut là bệnh dễ lây, nhất là trong gia đình và trường học. Do đó, người bị sốt virut nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ em. Khi trẻ bị sốt virut cần cho trẻ nghỉ học đến khi khỏi hẳn để tránh lây cho trẻ khác. Những người xung quanh nên phòng bệnh bằng cách nhỏ nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C để nâng cao sức đề kháng của cơ thể.

Ths Lê Hưng

Lạm dụng điện thoại thông minh có thể gây tổn thương mắt của trẻ

Một nhóm bác sĩ tại Bệnh viện Đại học Quốc gia Chonnam ở Seoul, Hàn Quốc đã tìm ra mối liên quan giữa sử dụng điện thoại thông minh quá nhiều và bệnh mắt ở trẻ dưới 5 tuổi. Họ phát hiện thấy sử dụng điện thoại thông minh nhiều khiến trẻ có thể bị lác mắt. Lác mắt là tình trạng khi nhìn vào một vật nào đó hai mắt không thể đồng thời thẳng hàng. Theo các tác giả, những trẻ này cầm điện thoại ở khoảng cách xa với mặt 20-30cm. 9 trong số 12 trẻ được điều trị thành công khi tránh dùng điện thoại thông minh khoảng 2 tháng.

Các tác giả cho rằng người sử dụng không nên nhìn vào màn hình điện thoại quá 30 phút. Trẻ em có dấu hiệu lác mắt cần được đi khám ngay lập tức.

Ánh sáng xanh từ điện thoại có thể gây hại vì nó là sóng năng lượng cao nhất của ánh sáng. Loại năng lượng này có khả năng thâm nhập vào sau mắt, qua bộ lọc tự nhiên của mắt, dẫn tới đục thủy tinh thể và các bệnh về mắt khác như tổn thương võng mạc.

BS Tuyết Mai

(Theo THS/ Univadis)

Một số bệnh thường gặp và cách phòng ngừa

Đặc điểm bệnh lý

Tình trạng già nua không phải là bệnh lý nhưng đây là cơ sở tạo điều kiện cho những loại bệnh tật phát sinh và phát triển. Tuổi cao thường bị giảm khả năng và hiệu lực các quá trình tự điều chỉnh thích nghi của cơ thể, giảm khả năng hấp thu và dự trữ các chất dinh dưỡng; đồng thời thường gặp phải những rối loạn chuyển hóa, giảm phản ứng của cơ thể, nhất là giảm sức tự vệ đối với các yếu tố gây bệnh như: nhiễm trùng, nhiễm độc, rối loạn stress... NCT là tính chất đa bệnh lý, nghĩa là NCT thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc. Trong đó có bệnh dễ phát hiện, dễ chẩn đoán nhưng cũng có nhiều bệnh khác xảy ra kín đáo, âm thầm, có khi nguy hiểm phải cần phải quan tâm để tránh bị bỏ sót. Vì vậy khi khám bệnh cần cẩn thận, tỉ mỉ, thăm khám toàn diện để có chẩn đoán hoàn chỉnh, xác định bệnh chính và bệnh phụ, bệnh cần xử trí trước và bệnh cần giải quyết sau.

Lời khuyên của thầy thuốcVới sự thay đổi của cơ thể theo thời gian và tuổi tác, NCT thường mắc phải nhiều loại bệnh khác nhau. Vì vậy, việc chữa bệnh và phòng bệnh cho NCT phải căn cứ trên những đặc điểm của cơ thể người đã bị lão hóa và bệnh lý của từng đối tượng cụ thể theo ba lĩnh vực có liên quan đến sinh học, y học và xã hội để xử trí một cách phù hợp; không thực hiện giống như cơ thể của những người còn trẻ. Đây là vấn đề cần được lưu ý nhằm bảo đảm sự an toàn cho NCT.

Các triệu chứng bệnh lý ở NCT ít khi điển hình, do đó dễ làm sai lạc chẩn đoán và đánh giá tiên lượng. Bệnh ở NCT thường bắt đầu không ồ ạt, các dấu hiệu không rõ rệt cả về chủ quan lẫn khách quan; vì vậy việc phát hiện bệnh có thể chậm. Khi bệnh toàn phát, các triệu chứng cũng không rõ rệt như ở người trẻ, do đó việc chẩn đoán đôi khi khó, nhất là đối với người yếu sức, nhiều phương pháp thăm dò không thực hiện được. Mặc dù bệnh xuất hiện kín đáo, triệu chứng không rầm rộ và tiến triển chậm nhưng bệnh lý ở NCT sớm ảnh hưởng đến toàn thân, dẫn đến suy kiệt nhanh chóng và bệnh dễ chuyển thành nặng nếu không điều trị kịp thời. Việc tiên lượng bệnh cũng không bao giờ được chủ quan. Đồng thời khả năng hồi phục bệnh ở NCT thường kém. Do đặc điểm cơ thể NCT đã suy yếu, đồng thời có thể mắc nhiều bệnh cùng một lúc, trong đó có nhiều bệnh mạn tính nên sau khi đã qua giai đoạn cấp tính thường phục hồi rất chậm. Vì vậy, việc điều trị phải mất nhiều thời gian và sau đó cần có một giai đoạn an dưỡng hoặc điều dưỡng. Cùng với việc điều trị bệnh, nên chú ý đến việc phục hồi chức năng thích ứng, kiên trì và phù hợp với tâm lý, thể lực ở NCT.

Những bệnh thường gặp

Bệnh thường gặp ở NCT bao gồm nhiều loại khác nhau như: tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, thận và tiết niệu, nội tiết chuyển hóa, xương và khớp, máu và cơ quan tạo máu, tự miễn, mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt, ngoài da, tâm thần, thần kinh.

Bệnh tim mạch: thường gặp là cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch. Ngoài ra còn gặp các bệnh tâm phế mạn, rối loạn nhịp tim và dẫn truyền, suy tim, tắc nghẽn động mạch.

Bệnh hô hấp: thường gặp là viêm phế quản mạn tính, giãn phế nang, ung thư phổi.

Bệnh tiêu hóa: thường gặp là ung thư gan, xơ gan, viêm túi mật, viêm loét dạ dày - tá tràng, viêm đại tràng mạn tính, táo bón.

Bệnh thận và tiết niệu: thường gặp là viêm thận mạn tính, viêm bể thận mạn tính, sỏi tiết niệu, u tuyến xơ và ung thư tuyến tiền liệt, rối loạn tiểu tiện nhất là tiểu tiện không tự chủ.

Bệnh nội tiết chuyển hóa: thường gặp là đái tháo đường hay có biến chứng thận, suy tuyến giáp trạng, suy sinh dục, tăng chất cholesterol máu, tăng axít uric máu.

Bệnh xương và khớp: thường gặp là loãng xương, thoái hóa khớp, gút, gãy xương các loại do loãng xương, hội chứng vai - tay, bệnh Paget.

Bệnh máu và cơ quan tạo máu: thường gặp là thiếu máu do thiếu sắt, hội chứng tăng đông máu; thiếu máu do thiếu acxít folic hoặc vitamin B12; bệnh bạch cầu mạn tính và cấp tính, đau tủy xương, macroglobulin máu, bệnh ung thư hạch.

Bệnh tự miễn: thường gặp là những loại có tự kháng thể kháng globulin, tự kháng thể kháng nhân; tự kháng thể đặc hiệu kháng hồng cầu, kháng giáp trạng, kháng niêm mạc dạ dày. Ngoài ra ở NCT cũng thường gặp bệnh tự miễn dịch tiềm tàng.

Bệnh mắt: thường gặp là đục thủy tinh thể, thoái hóa võng mạc và mạch mạc, xơ cứng tiến triển các mạch võng mạc.

Bệnh tai mũi họng: thường gặp là giảm thích lực kiểu giác quan, thần kinh, chuyển hóa hoặc cơ học; rối loạn tiền đình; ung thư xoang hàm, xoang sàng, tai, amiđan, vòm mũi - họng.

Bệnh răng hàm mặt: thường gặp là u lành tính và u ác tính khoang miệng, viêm khớp thái dương - hàm.

Bệnh ngoài da: thường gặp là ngứa ở NCT, dày sừng ở NCT, u tuyến mồ hôi, rụng tóc, tổn thương tiền ung thư và ung thư hắc tố, ung thư biểu mô, teo niêm mạc sinh dục nhất là ở nữ giới.

Bệnh tâm thần: thường gặp hai loại chính là loạn tâm thần trước tuổi cao và loạn tâm thần khi cao tuổi. Trong loạn tâm thần trước tuổi cao, những biểu hiện bệnh lý hay được ghi nhận là trạng thái trầm cảm, hoang tưởng, loạn tâm thần ác tính, trạng thái tăng trương lực muộn. Trong loạn thần khi cao tuổi, những biểu hiện bệnh lý hay được ghi nhận là bệnh Alzheimer, thể nhớ bịa, thể mê sảng.

Bệnh thần kinh: thường gặp là rối loạn tuần hoàn não gồm các kiểu và mức độ, u trong sọ não, hội chứng ngoài bó tháp nhất là bệnh Parkinson, hội chứng rối loạn não Steele, run tự phát, rối loạn mạch máu tiểu não, u tiểu não, bệnh tủy sống có nguyên nhân mạch máu, viêm đa dây thần kinh, chèn ép dây thần kinh.

Người cao tuổi không nên tự ý dùng thuốc

Để phòng bệnh ở NCT, cần có biện pháp riêng cho từng loại bệnh. Lưu ý việc thận trọng trong lúc đi lại vì khi bị ngã rất dễ gây gãy xương do xương quá xốp. Đặc biệt, phải cẩn thận khi dùng thuốc điều trị nhất là về liều lượng và lúc dùng nhiều loại thuốc cùng một lúc, thuốc có độc tính cao. NCT không nên tự ý dùng thuốc, nên hỏi ý kiến cụ thể của bác sĩ, đặc biệt là bác sĩ chuyên khoa lão khoa. Việc đi máy bay không có chống chỉ định đối với NCT khỏe mạnh nhưng nếu có bệnh thì phải tùy theo từng loại bệnh, mức độ và giai đoạn bệnh lý để quyết định. Việc tổ chức chăm sóc NCT cần có sự quan tâm của toàn xã hội. Hiện nay ở nhiều quốc gia đã có những tổ chức xã hội hoặc từ thiện chăm sóc NCT cô đơn không nơi nương tựa. Nhà nước đã tổ chức những già dưỡng lão, có phòng khám để khám bệnh định kỳ, tạo mọi điều kiện để NCT có thể tham gia đóng góp cho xã hội; đồng thời nên thành lập các hội, câu lạc bộ NCT, người nghỉ hưu để họ có điều kiện sinh hoạt khi tuổi đã cao. Về các loại thuốc nâng cao tuổi thọ, hiện nay do chưa rõ nguyên nhân cơ chế của tuổi cao, đồng thời tuổi thọ cũng tùy thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, môi trường tự nhiên và xã hội, bệnh tật... nên chưa có cơ sở để đề cập đến các loại thuốc nâng cao tuổi thọ. Thực tế do tuổi cao kèm theo sức yếu nên các nhà khoa học cho rằng có thể có những hoại thuốc bảo thọ mà chủ yếu là các hoạt chất chống oxy hóa, các yếu tố vi lượng, các vitamin, sâm và nhung.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH